Các trường hợp văn phòng luật sư bị thu hồi giấy phép

Các trường hợp văn phòng luật sư bị thu hồi giấy phép

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 137/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 123/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, có hiệu lực thi hành từ ngày 25-11.

Theo đó, có 5 trường hợp công ty luật, văn phòng luật sư bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động gồm: Công ty luật, văn phòng luật chấm dứt hoạt động theo quy định khoản 1 Điều 47 của Luật Luật sư;

Bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức tước quyền sử dụng Giấy đăng ký hoạt động theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính;

Không đăng ký mã số thuế trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động;

Không hoạt động liên tục tại trụ sở đã đăng ký trong thời hạn 6 tháng, trừ trường hợp tạm ngừng hoạt động theo quy định;

Không hoạt động trở lại hoặc không báo cáo về việc tiếp tục tạm ngừng hoạt động quá 6 tháng, kể từ ngày hết thời hạn tạm ngừng hoạt động theo quy định.

Ngoài ra, cũng theo Nghị định 137/2018, những trường hợp sau không được miễn đào tạo nghề luật, miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư. Cụ thể, đó là những người đã xử lý hình sự hoặc kỷ luật đến mức bị cách chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, kiểm tra viên, thẩm tra viên, tước danh hiệu công an nhân dân, tước quân hàm sĩ quan quân đội nhân dân; tước học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật...

Đáng chú ý, chủ nhiệm Đoàn luật sư và thành viên Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư sẽ bị bãi nhiệm khi thuộc một trong các trường hợp sau:

Vi phạm các quy định của Hiến pháp, pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; xâm hại lợi ích của Đoàn luật sư;

Không chấp hành yêu cầu, quy định, quyết định của cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư sau khi được nhắc nhở bằng văn bản;

Bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư; các trường hợp khác theo quy định của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Chủ nhiệm Đoàn luật sư còn bị bãi nhiệm trong trường hợp khi quá thời hạn 6 tháng, kể từ ngày hết nhiệm kỳ mà không điều hành Ban Chủ nhiệm tổ chức Đại hội, trừ trường hợp có lý do chính đáng; không thực hiện chế độ báo cáo theo quy định của Luật Luật sư trong 2 năm liên tục; không gửi các quy định, quyết định, nghị quyết liên quan đến việc tổ chức Đại hội của Đoàn luật sư cho cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày kết thúc Đại hội.

Theo plo.vn

Cập nhật
31-05-2019
Xem thêm các tư vấn về:
Có thể bạn quan tâm: